Thông tin địa chất và tài nguyên địa chất Việt Nam (LIC) : [349]

Bạn muốn nhận thông báo về tài liệu mới của bộ sưu tập qua email?
Danh sách tài liệu trong bộ sưu tập (Sắp xếp theo "Ngày nhập " với thứ tự "Giảm dần "): Hiển thị 1-20 trong tổng số 349 tài liệu
  • BKT_00144.pdf.jpg
  • Article


  • Tác giả : Fontaine, Henri (2017)

  • Nhân vật nước Anh, tự học để đạt kiến thức cũng như kinh nghiệm của một kỹ sư công chính trước khi thiên về địa chất và được xem là nhà sáng tạo ra ngành địa tầng.

  • BKT_00229.pdf.jpg
  • Article


  • Tác giả : Trần, Nghi (2017)

  • Theo D. Emery và K.J. Myers, 1996 [1] địa tầng dãy là các đơn vị trầm tích cộng sinh với nhau lấp đầy một bể, ranh giới giữa các đơn vị thường trùng với mặt ranh giới hai tập trầm tích hoặc bề mặt gián đoạn trầm tích, mỗi đơn vị trầm tích này gọi là một dãy (sequence). Theo J.C. Van Wagoner, H.W. Posamentier, R.M. Mitchum, P.R. Vail, I.F. Sarg, T.S. Lautit và J. Hardenbol: "Địa tầng dãy là mối quan hệ giữa các đơn vị trầm tích có cùng nguồn gốc trong khung địa tầng được giới hạn với nhau bởi bề mặt bào mòn hoặc gián đoạn trầm tích hoặc chỉnh hợp tương đương". Một đơn vị cơ bản của địa tầng dãy là một dãy (một Sequence). Giữa chúng có ranh giới là các bề mặt bào mòn hoặc các bề mặt chỉ...

  • BKT_00249.pdf.jpg
  • Article


  • Tác giả : Trần, Nghi (2017)

  • Địa hình đáy biển và đại dương rất đa dạng do các quá trình địa chất quy định. Có hai quá trình chuyển động cơ bản, là phân kỳ và hội tụ, đã tạo nên các dạng địa hình khác nhau. Tuy nhiên, phân loại địa hình đáy biển và đại dương phải theo đặc điểm độ dốc, đặc điểm địa hình đáy và cấu trúc địa chất. Địa hình thềm lục địa bao gồm thềm trong, thềm ngoài, có độ dốc tương đối thoải (từ 0,5 đến 20) là kết quả của hai quá trình chuyển động nội sinh và ngoại sinh. Thềm lục địa rộng hay hẹp phụ thuộc vào kiểu rìa lục địa. Rìa thụ động thì thềm lục địa rộng và thoải. Ngược lại, rìa tích cực thì thềm hẹp và dốc. Địa hình sườn lục địa có bề mặt không bằng phẳng, tương đối dốc thay đổi từ 5 đến...

  • BKT_00248.pdf.jpg
  • Article


  • Tác giả : Trần, Nghi (2017)

  • Biển là các thủy vực nằm giữa đại lục hoặc nằm sát các đại lục và liên thông với đại dương qua các đảo và quần đảo. Theo địa mạo và độ sâu, biển được chia ra hai loại: loại đáy bằng phẳng và loại máng sâu hay biển nông và biển sâu. Biển nông thường có đáy phẳng đặc trưng cho miền nền hay gọi là biển á lục địa. Còn biển máng có đáy khá sâu và địa hình đáy phân cắt đặc trưng cho địa máng hay đới hút chìm. Tuy nhiên có ngoại lệ ví dụ như biển Java (Indonesia) có đáy phẳng song nước sâu và có khi trong một biển vì có rìa khác nhau nên mang sắc thái của cả hai loại (biển Đen, Kaspien). Theo mối tương quan với lục địa (đất liền) chia ra biển nội lục (giữa lục địa) và biển ven đại dương. Đị...

  • BKT_00256.pdf.jpg
  • Article


  • Tác giả : Trần, Nghi (2017)

  • Đới bờ là dải đất liền ven biển đã từng chịu quá trình tác động của biển trong Holocen muộn (3000 năm đến nay) và phần ngập nước đến độ sâu khoảng 20 m nước là giới hạn của trầm tích Holocen muộn lắng đọng. Những dấu ấn của quá trình địa chất để lại trên không gian của đới bờ là các cồn cát do gió, các vũng vịnh ven bờ, các bãi triều cát, bãi triều lầy, rừng ngập mặn, các doi cát nối (tombolo), các đồng bằng châu thổ, các tiền châu thổ, các vùng cửa sông châu thổ và cửa sông hình phễu (estuary), các cồn chắn cửa sông, các thềm san hô và thềm biển cổ. Các thành tạo địa chất kể trên liên quan chặt chẽ với 3 quá trình: sự thay đổi mực nước biển, chuyển động kiến tạo và quá trình vận chu...

  • BKT_00252.pdf.jpg
  • Article


  • Tác giả : Trần, Nghi (2017)

  • Theo Ủy ban Thế giới về Danh pháp các dạng đáy biển, thềm lục địa được định nghĩa như sau: “Thềm lục địa là một đới bao quanh lục địa được giới hạn từ đường mực nước thấp nhất đến độ sâu mà ở đó bề mặt địa hình đáy biển thay đổi độ dốc đột ngột. Định nghĩa này chưa được nhiều nhà địa chất nhất trí, song nó khá dễ hiểu và quan trọng là làm rõ được các tiêu chuẩn của thềm lục địa, có thể khái quát như sau: - Có sự thống nhất chung cấu trúc địa chất của thềm lục địa và lục địa kế cận. - Vị trí thềm lục địa có tính đặc thù trong bối cảnh chung của địa hình đáy đại dương, chúng là phần rìa lục địa ngập nước, phần ngập nước của các đảo và gờ nâng. Đó là nơi đã và đang tác động hết sức mạ...

  • BKT_00253.pdf.jpg
  • Article


  • Tác giả : Trần, Nghi (2017)

  • Sườn lục địa có độ sâu tối thiểu là 200m và chìm sâu đến 3000 - 4000m trong trường hợp rìa thụ động và đến 5000 - 10.000m ở rìa lục địa tích cực. Góc nghiêng sườn lục địa từ 4 – 5o, có khi dốc có khi thoải song độ dốc này gấp khoảng 200 lần độ dốc trung bình của thềm lục địa. Kể cả thềm lẫn sườn lục địa đều bị chia cắt bởi các thung lũng và rãnh sâu (canyon). Đỉnh của chúng có khi nằm sát đường bờ. Trong phạm vi rìa lục địa thụ động sườn lục địa dần dần nghiêng về phía đại dương và chuyển sang chân lục địa. Ở đây chân lục địa có độ dốc 0,15 – 1o và có độ sâu 4000 - 5000m. Trên đó bị phân cắt bởi nhiều thung lũng, máng, lòng chảo có khi tạo nên hình khung cánh quạt. Chúng có thể nằm...

  • BKT_00247.pdf.jpg
  • Article


  • Tác giả : Trần, Nghi (2017)

  • Đá vụn núi lửa được thành tạo do quá trình phun nổ của núi lửa. Chúng có đặc điểm kiến trúc, cấu tạo và thành phần khoáng vật phức tạp. Khác với đá phun trào thực thụ là các dung nham được phun trào lên và chảy tràn thành dòng, sau đó đông cứng lại, còn đá vụn núi lửa là sản phẩm của hai quá trình phun nổ và phun trào hỗn độn với thành phần ngoại lai. Dung nham tung lên trời bao gồm nhiều thành phần phức tạp: bom, cuội, dăm, khoáng vật vụn, tro bụi núi lửa. Khi rơi xuống tạo thành nhóm đá tuf aglomirat không phân dị. Nhóm đá phun trào hỗn độn là sản phẩm trộn lẫn của các dòng dung nham với thành phần ngoại lai trên đường vận chuyển từ họng núi lửa ra xung quanh với một cự li tương đối...

  • BKT_00244.pdf.jpg
  • Article


  • Tác giả : Trần, Nghi (2017)

  • Đá sinh vật cháy là đá trầm tích nguồn gốc sinh vật, có thể đốt cháy được. Nó là một loại đá đặc biệt, vì không phải là sản phẩm phá hủy của một loại đá nào đó, cũng không phải phân ly từ dung dịch thật hay do sự ngưng keo, mà là sản phẩm của sinh vật (bao gồm động vật và thực vật) đã bị biến đổi thành vật chất hoàn toàn mới. Xuất phát từ đặc điểm đó. M.S. Svetsov (1968) đã tách các loại đá cháy được thành một nhóm độc lập, gọi là nhóm có nguồn gốc quang hợp. Bởi vì, sự phát triển của sinh vật, đặc biệt là thực vật, cũng như trong giai đoạn đầu của sự thành tạo các loại trầm tích này đều liên quan với nước, không khí và chịu sự tác dụng của năng lượng Mặt Trời.

  • BKT_00242.pdf.jpg
  • Article


  • Tác giả : Trần, Nghi (2017)

  • Quá trình phong hoá các đá trầm tích trên mặt đất hay các vật liệu núi lửa trong biển tạo nên phần lớn silit chuyển vào dung dịch. Dung dịch có chứa vài mg silic/l (1) không phải là hiếm gặp. Trong tự nhiên chúng tồn tại ở trạng thái dung dịch keo hoặc dung dịch silicat kiềm. Những dung dịch ấy là nguồn kết tủa vô cơ hoặc sinh hoá thành tạo các đá trầm tích silixit. Nước trên lục địa cũng như nước biển thường chứa nhiều sinh vật trôi nổi có bộ xương silit như Tảo silit (Diatome), Trùng tia (Radiolaria), v.v. sự tích tụ xác của chúng tạo nên các đá silixit nguồn gốc sinh hoá. Các đá trầm tích silixit nguồn gốc vô cơ thường có cấu tạo trứng cá và thành tạo ở lục địa, trong môi trường nư...

  • BKT_00254.pdf.jpg
  • Article


  • Tác giả : Trần, Nghi (2017)

  • Đá magma và biến chất ở biển và đại dương có tính đặc thù khác với đá magma và biến chất trên đại lục. Đá magma là thành phần chủ yếu của vỏ đại dương có bề dày trung bình khoảng 7 km, bao gồm cả đá xâm nhập và phun trào. Thành phần thạch học và thành phần hóa học có sự thay đổi từ trung tâm sống núi giữa đại dương đến hai bên rìa lục địa. Ở sống núi giữa đại dương và lòng chảo đại dương chủ yếu là tổ hợp ophiolit, gabbro-basalt đến hai phía rìa lục địa là diorit-andesit và cuối cùng nhóm đá granit-ryolit. Đá biến chất ở biển và đại dương chủ yếu là các đá biến chất nhiệt dịch như palagonit, smectit và carbonat. Các đá biến chất áp suất thấp như đá phiến lục, biến chất áp suất trung ...

  • BKT_00239.pdf.jpg
  • Book


  • Tác giả : Trần, Nghi (2017)

  • á trầm tích sắt là đá chứa nhiều khoáng vật sắt nguồn gốc trầm tích như: gơtit, hydrogơtit, hematit, hydrohematit, manhetit, leptoclorit (samozit), limonit, siderit, mackazit,... Ngoài ra còn lẫn nhiều khoáng vật khác như: canxit, glauconit, khoáng vật sét, silit, mảnh vụn cơ học (thạch anh, feldspat, mica...). Đôi khi trầm tích sắt tạo thành một thể quặng sắt trầm tích chứa 100% khoáng vật sắt như các mũ sắt limonit và gơtit.

  • BKT_00238.pdf.jpg
  • Book


  • Tác giả : Trần, Nghi (2017)

  • Đá chứa nhôm hay trầm tích nhôm là đá giàu khoáng vật oxyt và hydroxyt nhôm. Tùy theo hàm lượng Al2O3, Fe2O3, SiO2, chia ra các loại: - Đá alit: Khi hàm lượng Al2O3  2,8%, Modul SiO2: 1,1 - 2,6. - Bauxit: do nhà hóa học Berthier (1921) dùng để chỉ tên một loại đá màu nâu đỏ trong trầm tích Mesozoi ở vùng Baux miền đông nước Pháp. Bauxit có 2 nguồn gốc trầm tích và vỏ phong hóa. Thành phần khoáng vật của bauxit chủ yếu là gipxit (hidragilit) – Al(OH)3; bowmit, diaspo – AlO(OH); corindon – Al2O3. Ngoài ra, còn gặp oxyt và hydroxyt sắt dưới dạng các khoáng vật gowtit, hematit, hydrogotit.

  • BKT_00241.pdf.jpg
  • Article


  • Tác giả : Trần, Nghi (2017)

  • Trầm tích mangan là loại đá khó xác định bằng phương pháp thạch học (lát mỏng). Vì vậy, đóng vai trò chính trong việc xác định quặng mangan chủ yếu là phân tích nhiệt, hoá học, đôi khi chỉ có phân tích rơnghen mới có thể xác định chính xác từng loại khoáng vật mangan. Quặng mangan chủ yếu được sử dụng trong công nghiệp luyện kim đen để chế tạo các loại hợp kim, thép đặc biệt. Thành phần có hại trong quặng mangan là photpho và lưu huỳnh

  • BKT_00240.pdf.jpg
  • Article


  • Tác giả : Trần, Nghi (2017)

  • Đá carbonat là một nhóm đá phổ biến trong các loại đá trầm tích, nhóm đá hoá học và sinh khoáng nói riêng. Phổ biến nhất và chiếm khối lượng chủ yếu vẫn là đá vôi, thứ đến là dolomit. Ngoài ra đá carbonat còn có sự pha tạp giữa carbonat và thành phần phi carbonat như sét, silit, vụn cơ học v.v. Khi đó tên gọi của đá carbonat cũng thay đổi theo. Trong lịch sử phát triển vỏ Trái Đất thời đại nào cũng tồn tại các biển và đại dương thế giới. Trầm tích carbonat là đặc trưng cho biển có độ kiềm khá cao (pH > 8,5). Tuy nhiên tính chất của carbonat cũng biến đổi theo thời gian gắn chặt với chế độ kiến tạo và kiểu bồn tạo carbonat. Ví dụ trong Cambri, Ocdovic, Silua, carbonat thường có dạng ph...

  • BKT_00227.pdf.jpg
  • Article


  • Tác giả : Trần, Nghi (2017)

  • Tướng và môi trường trầm tích là hai vấn đề có nội hàm khác nhau. 1.1. Tướng trầm tích - Thuật ngữ "tướng" (facies) lần đầu tiên đã được N. Stero (Đan Mạch) đưa vào trong văn liệu địa chất năm 1669. - Năm 1840 Gresli A (Thụy Sĩ) đã định nghĩa: "tướng trầm tích là các trầm tích cùng tuổi nhưng được thành tạo ở những nơi khác nhau trên vỏ trái đất" - Trải qua nhiều giai đoạn nghiên cứu tướng trầm tích được quan niệm rất khác nhau; ví dụ: quan niệm tướng là thạch học và cổ sinh vật (Krumbein (Mỹ))[2], Belauxop (Nga). Quan niệm tướng là điều kiện địa lý tự nhiên hoặc môi trường trầm tích (Nalipkin, Jermchunnhicop (Nga), pettijohn (Mỹ)[4]. - Quan niệm tướng là tổng hợp điều kiện sinh ...

  • BKT_00243.pdf.jpg
  • Article


  • Tác giả : Trần, Nghi (2017)

  • Muối là loại đá trầm tích hoá học thuần tuý, gồm những khoáng vật có độ hoà tan lớn nhất. Chúng được lắng đọng từ dung dịch thật quá bão hoà, do kết quả của khí hậu khô nóng, nhiệt độ tăng cao lượng nước bốc hơi lớn hơn lượng nước mưa cung cấp. Các loại muối được sử dụng rộng rãi trong các ngành công nghiệp. Thạch cao và anhydrit được sử dụng để sản xuất vật liệu xây dựng (xi măng). Trong công nghiệp hoá học, luyện kim, giấy, làm mô hình, phấn viết... Ngoài việc được sử dụng trong đời sống của con người, các loại muối clorua còn là những nguyên liệu quan trọng trong công nghịêp hoá học để sản xuất BaOH, Cl, Na, Mg. Loại muối sunfat Na được sử dụng rộng rãi trong công nghiệp thuỷ tinh...

  • BKT_00250.pdf.jpg
  • Article


  • Tác giả : Trần, Nghi (2017)

  • Các trường địa vật lý tiêu biểu của biển và đại dương là trường trọng lực và trường địa từ. Dị thường trọng lực xác định được vị trí phân bố tương đối của các địa khối có tỉ trọng khác nhau trong thạch quyển. Nhờ vậy có thể xác định được độ sâu ranh giới mặt Moho, các cấu trúc vĩ mô của vỏ Trái đất, hướng chuyển động nâng hạ của các mảng và địa khối, từ đó có thể xác định được các đứt gãy có tính chất hành tinh và khu vực. Trường địa từ là trường từ tự nhiên của Trái đất. Mỗi một loại đất đá có một dị thường từ đặc trưng, khi các địa khối tách giãn hoặc bị xoay do chuyển động kiến tạo thì hướng trục từ cũng bị xoay theo. Nhờ vậy giúp ta biết được hướng chuyển động và biên độ chuyển đ...

  • BKT_00231.pdf.jpg
  • Article


  • Tác giả : Trần, Nghi (2017)

  • Vỏ Trái Đất liên tục biến đổi dưới tác động của chuyển động ngang (các mảng và các terran) như những nguyên nhân sâu xa dẫn đến các chuyển động thẳng đứng: nâng cao, tạo núi và sụt lún tạo các bồn trũng trầm tích. Quá trình chuyển động vừa kiến lập nên các bình đồ kiến trúc bền vững mới vừa phá huỷ các bình đồ cũ. Sự thay thế này xảy ra theo các chu kỳ và tuân theo quy luật tiến hoá và có mối quan hệ chặt chẽ giữa bối cảnh kiến tạo với thành phần trầm tích. Theo tiến trình đó tính chất hoá lý của môi trường và điều kiện cổ khí hậu thay đổi đã ảnh hưởng lớn đến toàn bộ chu trình phá huỷ, vận chuyển và lắng đọng trầm tích trên toàn bộ hành tinh. Nói cách khác sự tiến hoá của vỏ Trái Đấ...

  • BKT_00257.pdf.jpg
  • Article


  • Tác giả : Trần, Nghi (2017)

  • Thềm biển là một bậc địa hình tương đối bằng phẳng, hoặc nghiêng thoải về phía biển tạo ra do sóng vỗ mài mòn trong thời gian mực nước biển dừng lại tương đối trong quá trình biển thoái hoặc biển tiến. Bề rộng của thềm mài mòn tích tụ trên các cồn cát ven biển Miền Trung Việt Nam vài km đến hàng chục km. Thềm biển trong Đệ tứ phân bố trên đất liền và dưới đáy biển có sự tương ứng theo tuổi và sắp sếp theo quy luật ngược chiều: Trên đất liền thềm càng cao thì tuổi càng cổ. Trên đáy biển thềm lục địa thềm biển càng sâu thì tuổi càng cổ. Có sự chênh lệch đáng kể giữa độ cao và độ sâu thềm biển cùng tuổi là do biên độ biển tiến – biển thoái và chuyển động kiến tạo

Danh sách tài liệu trong bộ sưu tập (Sắp xếp theo "Ngày nhập " với thứ tự "Giảm dần "): Hiển thị 1-20 trong tổng số 349 tài liệu

Thông tin địa chất và tài nguyên địa chất Việt Nam (LIC) : [349]

Bạn muốn nhận thông báo về tài liệu mới của bộ sưu tập qua email?
Danh sách tài liệu trong bộ sưu tập (Sắp xếp theo "Ngày nhập " với thứ tự "Giảm dần "): Hiển thị 1-20 trong tổng số 349 tài liệu
  • BKT_00144.pdf.jpg
  • Article


  • Tác giả : Fontaine, Henri (2017)

  • Nhân vật nước Anh, tự học để đạt kiến thức cũng như kinh nghiệm của một kỹ sư công chính trước khi thiên về địa chất và được xem là nhà sáng tạo ra ngành địa tầng.

  • BKT_00229.pdf.jpg
  • Article


  • Tác giả : Trần, Nghi (2017)

  • Theo D. Emery và K.J. Myers, 1996 [1] địa tầng dãy là các đơn vị trầm tích cộng sinh với nhau lấp đầy một bể, ranh giới giữa các đơn vị thường trùng với mặt ranh giới hai tập trầm tích hoặc bề mặt gián đoạn trầm tích, mỗi đơn vị trầm tích này gọi là một dãy (sequence). Theo J.C. Van Wagoner, H.W. Posamentier, R.M. Mitchum, P.R. Vail, I.F. Sarg, T.S. Lautit và J. Hardenbol: "Địa tầng dãy là mối quan hệ giữa các đơn vị trầm tích có cùng nguồn gốc trong khung địa tầng được giới hạn với nhau bởi bề mặt bào mòn hoặc gián đoạn trầm tích hoặc chỉnh hợp tương đương". Một đơn vị cơ bản của địa tầng dãy là một dãy (một Sequence). Giữa chúng có ranh giới là các bề mặt bào mòn hoặc các bề mặt chỉ...

  • BKT_00249.pdf.jpg
  • Article


  • Tác giả : Trần, Nghi (2017)

  • Địa hình đáy biển và đại dương rất đa dạng do các quá trình địa chất quy định. Có hai quá trình chuyển động cơ bản, là phân kỳ và hội tụ, đã tạo nên các dạng địa hình khác nhau. Tuy nhiên, phân loại địa hình đáy biển và đại dương phải theo đặc điểm độ dốc, đặc điểm địa hình đáy và cấu trúc địa chất. Địa hình thềm lục địa bao gồm thềm trong, thềm ngoài, có độ dốc tương đối thoải (từ 0,5 đến 20) là kết quả của hai quá trình chuyển động nội sinh và ngoại sinh. Thềm lục địa rộng hay hẹp phụ thuộc vào kiểu rìa lục địa. Rìa thụ động thì thềm lục địa rộng và thoải. Ngược lại, rìa tích cực thì thềm hẹp và dốc. Địa hình sườn lục địa có bề mặt không bằng phẳng, tương đối dốc thay đổi từ 5 đến...

  • BKT_00248.pdf.jpg
  • Article


  • Tác giả : Trần, Nghi (2017)

  • Biển là các thủy vực nằm giữa đại lục hoặc nằm sát các đại lục và liên thông với đại dương qua các đảo và quần đảo. Theo địa mạo và độ sâu, biển được chia ra hai loại: loại đáy bằng phẳng và loại máng sâu hay biển nông và biển sâu. Biển nông thường có đáy phẳng đặc trưng cho miền nền hay gọi là biển á lục địa. Còn biển máng có đáy khá sâu và địa hình đáy phân cắt đặc trưng cho địa máng hay đới hút chìm. Tuy nhiên có ngoại lệ ví dụ như biển Java (Indonesia) có đáy phẳng song nước sâu và có khi trong một biển vì có rìa khác nhau nên mang sắc thái của cả hai loại (biển Đen, Kaspien). Theo mối tương quan với lục địa (đất liền) chia ra biển nội lục (giữa lục địa) và biển ven đại dương. Đị...

  • BKT_00256.pdf.jpg
  • Article


  • Tác giả : Trần, Nghi (2017)

  • Đới bờ là dải đất liền ven biển đã từng chịu quá trình tác động của biển trong Holocen muộn (3000 năm đến nay) và phần ngập nước đến độ sâu khoảng 20 m nước là giới hạn của trầm tích Holocen muộn lắng đọng. Những dấu ấn của quá trình địa chất để lại trên không gian của đới bờ là các cồn cát do gió, các vũng vịnh ven bờ, các bãi triều cát, bãi triều lầy, rừng ngập mặn, các doi cát nối (tombolo), các đồng bằng châu thổ, các tiền châu thổ, các vùng cửa sông châu thổ và cửa sông hình phễu (estuary), các cồn chắn cửa sông, các thềm san hô và thềm biển cổ. Các thành tạo địa chất kể trên liên quan chặt chẽ với 3 quá trình: sự thay đổi mực nước biển, chuyển động kiến tạo và quá trình vận chu...

  • BKT_00252.pdf.jpg
  • Article


  • Tác giả : Trần, Nghi (2017)

  • Theo Ủy ban Thế giới về Danh pháp các dạng đáy biển, thềm lục địa được định nghĩa như sau: “Thềm lục địa là một đới bao quanh lục địa được giới hạn từ đường mực nước thấp nhất đến độ sâu mà ở đó bề mặt địa hình đáy biển thay đổi độ dốc đột ngột. Định nghĩa này chưa được nhiều nhà địa chất nhất trí, song nó khá dễ hiểu và quan trọng là làm rõ được các tiêu chuẩn của thềm lục địa, có thể khái quát như sau: - Có sự thống nhất chung cấu trúc địa chất của thềm lục địa và lục địa kế cận. - Vị trí thềm lục địa có tính đặc thù trong bối cảnh chung của địa hình đáy đại dương, chúng là phần rìa lục địa ngập nước, phần ngập nước của các đảo và gờ nâng. Đó là nơi đã và đang tác động hết sức mạ...

  • BKT_00253.pdf.jpg
  • Article


  • Tác giả : Trần, Nghi (2017)

  • Sườn lục địa có độ sâu tối thiểu là 200m và chìm sâu đến 3000 - 4000m trong trường hợp rìa thụ động và đến 5000 - 10.000m ở rìa lục địa tích cực. Góc nghiêng sườn lục địa từ 4 – 5o, có khi dốc có khi thoải song độ dốc này gấp khoảng 200 lần độ dốc trung bình của thềm lục địa. Kể cả thềm lẫn sườn lục địa đều bị chia cắt bởi các thung lũng và rãnh sâu (canyon). Đỉnh của chúng có khi nằm sát đường bờ. Trong phạm vi rìa lục địa thụ động sườn lục địa dần dần nghiêng về phía đại dương và chuyển sang chân lục địa. Ở đây chân lục địa có độ dốc 0,15 – 1o và có độ sâu 4000 - 5000m. Trên đó bị phân cắt bởi nhiều thung lũng, máng, lòng chảo có khi tạo nên hình khung cánh quạt. Chúng có thể nằm...

  • BKT_00247.pdf.jpg
  • Article


  • Tác giả : Trần, Nghi (2017)

  • Đá vụn núi lửa được thành tạo do quá trình phun nổ của núi lửa. Chúng có đặc điểm kiến trúc, cấu tạo và thành phần khoáng vật phức tạp. Khác với đá phun trào thực thụ là các dung nham được phun trào lên và chảy tràn thành dòng, sau đó đông cứng lại, còn đá vụn núi lửa là sản phẩm của hai quá trình phun nổ và phun trào hỗn độn với thành phần ngoại lai. Dung nham tung lên trời bao gồm nhiều thành phần phức tạp: bom, cuội, dăm, khoáng vật vụn, tro bụi núi lửa. Khi rơi xuống tạo thành nhóm đá tuf aglomirat không phân dị. Nhóm đá phun trào hỗn độn là sản phẩm trộn lẫn của các dòng dung nham với thành phần ngoại lai trên đường vận chuyển từ họng núi lửa ra xung quanh với một cự li tương đối...

  • BKT_00244.pdf.jpg
  • Article


  • Tác giả : Trần, Nghi (2017)

  • Đá sinh vật cháy là đá trầm tích nguồn gốc sinh vật, có thể đốt cháy được. Nó là một loại đá đặc biệt, vì không phải là sản phẩm phá hủy của một loại đá nào đó, cũng không phải phân ly từ dung dịch thật hay do sự ngưng keo, mà là sản phẩm của sinh vật (bao gồm động vật và thực vật) đã bị biến đổi thành vật chất hoàn toàn mới. Xuất phát từ đặc điểm đó. M.S. Svetsov (1968) đã tách các loại đá cháy được thành một nhóm độc lập, gọi là nhóm có nguồn gốc quang hợp. Bởi vì, sự phát triển của sinh vật, đặc biệt là thực vật, cũng như trong giai đoạn đầu của sự thành tạo các loại trầm tích này đều liên quan với nước, không khí và chịu sự tác dụng của năng lượng Mặt Trời.

  • BKT_00242.pdf.jpg
  • Article


  • Tác giả : Trần, Nghi (2017)

  • Quá trình phong hoá các đá trầm tích trên mặt đất hay các vật liệu núi lửa trong biển tạo nên phần lớn silit chuyển vào dung dịch. Dung dịch có chứa vài mg silic/l (1) không phải là hiếm gặp. Trong tự nhiên chúng tồn tại ở trạng thái dung dịch keo hoặc dung dịch silicat kiềm. Những dung dịch ấy là nguồn kết tủa vô cơ hoặc sinh hoá thành tạo các đá trầm tích silixit. Nước trên lục địa cũng như nước biển thường chứa nhiều sinh vật trôi nổi có bộ xương silit như Tảo silit (Diatome), Trùng tia (Radiolaria), v.v. sự tích tụ xác của chúng tạo nên các đá silixit nguồn gốc sinh hoá. Các đá trầm tích silixit nguồn gốc vô cơ thường có cấu tạo trứng cá và thành tạo ở lục địa, trong môi trường nư...

  • BKT_00254.pdf.jpg
  • Article


  • Tác giả : Trần, Nghi (2017)

  • Đá magma và biến chất ở biển và đại dương có tính đặc thù khác với đá magma và biến chất trên đại lục. Đá magma là thành phần chủ yếu của vỏ đại dương có bề dày trung bình khoảng 7 km, bao gồm cả đá xâm nhập và phun trào. Thành phần thạch học và thành phần hóa học có sự thay đổi từ trung tâm sống núi giữa đại dương đến hai bên rìa lục địa. Ở sống núi giữa đại dương và lòng chảo đại dương chủ yếu là tổ hợp ophiolit, gabbro-basalt đến hai phía rìa lục địa là diorit-andesit và cuối cùng nhóm đá granit-ryolit. Đá biến chất ở biển và đại dương chủ yếu là các đá biến chất nhiệt dịch như palagonit, smectit và carbonat. Các đá biến chất áp suất thấp như đá phiến lục, biến chất áp suất trung ...

  • BKT_00239.pdf.jpg
  • Book


  • Tác giả : Trần, Nghi (2017)

  • á trầm tích sắt là đá chứa nhiều khoáng vật sắt nguồn gốc trầm tích như: gơtit, hydrogơtit, hematit, hydrohematit, manhetit, leptoclorit (samozit), limonit, siderit, mackazit,... Ngoài ra còn lẫn nhiều khoáng vật khác như: canxit, glauconit, khoáng vật sét, silit, mảnh vụn cơ học (thạch anh, feldspat, mica...). Đôi khi trầm tích sắt tạo thành một thể quặng sắt trầm tích chứa 100% khoáng vật sắt như các mũ sắt limonit và gơtit.

  • BKT_00238.pdf.jpg
  • Book


  • Tác giả : Trần, Nghi (2017)

  • Đá chứa nhôm hay trầm tích nhôm là đá giàu khoáng vật oxyt và hydroxyt nhôm. Tùy theo hàm lượng Al2O3, Fe2O3, SiO2, chia ra các loại: - Đá alit: Khi hàm lượng Al2O3  2,8%, Modul SiO2: 1,1 - 2,6. - Bauxit: do nhà hóa học Berthier (1921) dùng để chỉ tên một loại đá màu nâu đỏ trong trầm tích Mesozoi ở vùng Baux miền đông nước Pháp. Bauxit có 2 nguồn gốc trầm tích và vỏ phong hóa. Thành phần khoáng vật của bauxit chủ yếu là gipxit (hidragilit) – Al(OH)3; bowmit, diaspo – AlO(OH); corindon – Al2O3. Ngoài ra, còn gặp oxyt và hydroxyt sắt dưới dạng các khoáng vật gowtit, hematit, hydrogotit.

  • BKT_00241.pdf.jpg
  • Article


  • Tác giả : Trần, Nghi (2017)

  • Trầm tích mangan là loại đá khó xác định bằng phương pháp thạch học (lát mỏng). Vì vậy, đóng vai trò chính trong việc xác định quặng mangan chủ yếu là phân tích nhiệt, hoá học, đôi khi chỉ có phân tích rơnghen mới có thể xác định chính xác từng loại khoáng vật mangan. Quặng mangan chủ yếu được sử dụng trong công nghiệp luyện kim đen để chế tạo các loại hợp kim, thép đặc biệt. Thành phần có hại trong quặng mangan là photpho và lưu huỳnh

  • BKT_00240.pdf.jpg
  • Article


  • Tác giả : Trần, Nghi (2017)

  • Đá carbonat là một nhóm đá phổ biến trong các loại đá trầm tích, nhóm đá hoá học và sinh khoáng nói riêng. Phổ biến nhất và chiếm khối lượng chủ yếu vẫn là đá vôi, thứ đến là dolomit. Ngoài ra đá carbonat còn có sự pha tạp giữa carbonat và thành phần phi carbonat như sét, silit, vụn cơ học v.v. Khi đó tên gọi của đá carbonat cũng thay đổi theo. Trong lịch sử phát triển vỏ Trái Đất thời đại nào cũng tồn tại các biển và đại dương thế giới. Trầm tích carbonat là đặc trưng cho biển có độ kiềm khá cao (pH > 8,5). Tuy nhiên tính chất của carbonat cũng biến đổi theo thời gian gắn chặt với chế độ kiến tạo và kiểu bồn tạo carbonat. Ví dụ trong Cambri, Ocdovic, Silua, carbonat thường có dạng ph...

  • BKT_00227.pdf.jpg
  • Article


  • Tác giả : Trần, Nghi (2017)

  • Tướng và môi trường trầm tích là hai vấn đề có nội hàm khác nhau. 1.1. Tướng trầm tích - Thuật ngữ "tướng" (facies) lần đầu tiên đã được N. Stero (Đan Mạch) đưa vào trong văn liệu địa chất năm 1669. - Năm 1840 Gresli A (Thụy Sĩ) đã định nghĩa: "tướng trầm tích là các trầm tích cùng tuổi nhưng được thành tạo ở những nơi khác nhau trên vỏ trái đất" - Trải qua nhiều giai đoạn nghiên cứu tướng trầm tích được quan niệm rất khác nhau; ví dụ: quan niệm tướng là thạch học và cổ sinh vật (Krumbein (Mỹ))[2], Belauxop (Nga). Quan niệm tướng là điều kiện địa lý tự nhiên hoặc môi trường trầm tích (Nalipkin, Jermchunnhicop (Nga), pettijohn (Mỹ)[4]. - Quan niệm tướng là tổng hợp điều kiện sinh ...

  • BKT_00243.pdf.jpg
  • Article


  • Tác giả : Trần, Nghi (2017)

  • Muối là loại đá trầm tích hoá học thuần tuý, gồm những khoáng vật có độ hoà tan lớn nhất. Chúng được lắng đọng từ dung dịch thật quá bão hoà, do kết quả của khí hậu khô nóng, nhiệt độ tăng cao lượng nước bốc hơi lớn hơn lượng nước mưa cung cấp. Các loại muối được sử dụng rộng rãi trong các ngành công nghiệp. Thạch cao và anhydrit được sử dụng để sản xuất vật liệu xây dựng (xi măng). Trong công nghiệp hoá học, luyện kim, giấy, làm mô hình, phấn viết... Ngoài việc được sử dụng trong đời sống của con người, các loại muối clorua còn là những nguyên liệu quan trọng trong công nghịêp hoá học để sản xuất BaOH, Cl, Na, Mg. Loại muối sunfat Na được sử dụng rộng rãi trong công nghiệp thuỷ tinh...

  • BKT_00250.pdf.jpg
  • Article


  • Tác giả : Trần, Nghi (2017)

  • Các trường địa vật lý tiêu biểu của biển và đại dương là trường trọng lực và trường địa từ. Dị thường trọng lực xác định được vị trí phân bố tương đối của các địa khối có tỉ trọng khác nhau trong thạch quyển. Nhờ vậy có thể xác định được độ sâu ranh giới mặt Moho, các cấu trúc vĩ mô của vỏ Trái đất, hướng chuyển động nâng hạ của các mảng và địa khối, từ đó có thể xác định được các đứt gãy có tính chất hành tinh và khu vực. Trường địa từ là trường từ tự nhiên của Trái đất. Mỗi một loại đất đá có một dị thường từ đặc trưng, khi các địa khối tách giãn hoặc bị xoay do chuyển động kiến tạo thì hướng trục từ cũng bị xoay theo. Nhờ vậy giúp ta biết được hướng chuyển động và biên độ chuyển đ...

  • BKT_00231.pdf.jpg
  • Article


  • Tác giả : Trần, Nghi (2017)

  • Vỏ Trái Đất liên tục biến đổi dưới tác động của chuyển động ngang (các mảng và các terran) như những nguyên nhân sâu xa dẫn đến các chuyển động thẳng đứng: nâng cao, tạo núi và sụt lún tạo các bồn trũng trầm tích. Quá trình chuyển động vừa kiến lập nên các bình đồ kiến trúc bền vững mới vừa phá huỷ các bình đồ cũ. Sự thay thế này xảy ra theo các chu kỳ và tuân theo quy luật tiến hoá và có mối quan hệ chặt chẽ giữa bối cảnh kiến tạo với thành phần trầm tích. Theo tiến trình đó tính chất hoá lý của môi trường và điều kiện cổ khí hậu thay đổi đã ảnh hưởng lớn đến toàn bộ chu trình phá huỷ, vận chuyển và lắng đọng trầm tích trên toàn bộ hành tinh. Nói cách khác sự tiến hoá của vỏ Trái Đấ...

  • BKT_00257.pdf.jpg
  • Article


  • Tác giả : Trần, Nghi (2017)

  • Thềm biển là một bậc địa hình tương đối bằng phẳng, hoặc nghiêng thoải về phía biển tạo ra do sóng vỗ mài mòn trong thời gian mực nước biển dừng lại tương đối trong quá trình biển thoái hoặc biển tiến. Bề rộng của thềm mài mòn tích tụ trên các cồn cát ven biển Miền Trung Việt Nam vài km đến hàng chục km. Thềm biển trong Đệ tứ phân bố trên đất liền và dưới đáy biển có sự tương ứng theo tuổi và sắp sếp theo quy luật ngược chiều: Trên đất liền thềm càng cao thì tuổi càng cổ. Trên đáy biển thềm lục địa thềm biển càng sâu thì tuổi càng cổ. Có sự chênh lệch đáng kể giữa độ cao và độ sâu thềm biển cùng tuổi là do biên độ biển tiến – biển thoái và chuyển động kiến tạo

Danh sách tài liệu trong bộ sưu tập (Sắp xếp theo "Ngày nhập " với thứ tự "Giảm dần "): Hiển thị 1-20 trong tổng số 349 tài liệu